Có nhiều yếu tố tác động trực tiếp đến gía bán thùng carton bao gồm: chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công vận hành sản xuất, chi phí marketing quảng cáo, chi phí vận chuyển, tình hình thị trường, số lượng đặt hàng…. Trong đó yếu tố nguyên vật liệu là yếu tố quan trọng hàng đầu ảnh hưởng lớn nhất đến giá thùng carton. Bài viết này ductuanpacking sẽ phân tích những ảnh hưởng của nguyên vật liệu đến ngành sản xuất thùng carton như thế nào.
Các nguyên vật liệu cần thiết trong sản xuất thùng carton
Bất cứ 1 sản phẩm nào muốn đạt chất lượng tốt thì cũng đều cần phải sử dụng nguyên vật liệu đảm bảo.
Thùng carton được sản xuất từ giấy bìa carton, keo dán hoặc ghim, mực in.
- Đối với loại thùng carton thông thường, thành phần chính để sản xuất giấy bìa carton là nguyên liệu bột giấy chiếm 74%, polyethylene chiếm 22% và khoảng 4% bột nhôm.
- Đối với thùng carton được sản xuất để dùng cho môi trường đông lạnh hoặc môi trường ẩm thì bột giấy chiếm tới 80%, còn lại là polyethylene chiếm 20%
Polyethylen (tiếng Anh: polyethylene hay polyethene; viết tắt: PE), là một loại nhựa nhiệt dẻo (thermoplastic) được sử dụng rất phổ biến trên thế giới (hàng năm tiêu thụ trên 60 triệu tấn) để làm ra các sản phẩm như ống nhựa, mút cứng, túi nhựa, bao bì …. Công thức tổng quát của nó là (̵C2H4)̵.
Polyethylen là một hợp chất hữu cơ (poly) gồm nhiều nhóm ethylen CH2-CH2 liên kết với nhau bằng các liên kết hydro nội phân tử. Polyethylen được xem như thành phần phụ gia trong công nghiệp sản xuất bao bì giấy do tính chất không dẫn điện và không dẫn nhiệt, không cho nước và khí thấm qua.
Một lượng nhỏ bột nhôm được sử dụng nhằm giúp tăng độ cứng, tăng khả năng chịu lực, chịu nhiệt cho thùng carton
Như vậy giá nguyên liệu giấy ảnh hưởng nhiều nhất đến giá thùng carton. Bột giấy sử dụng trong sản xuất thùng carton thường lấy từ nguồn giấy cũ qua tái chế nhằm giảm chi phí sản xuất, bảo vệ môi trường mà vẫn đảm bảo được chất lượng sản phẩm.
Ảnh hưởng của nguyên vật liệu đến sản xuất thùng carton tại Việt Nam
Như đã phân tích ở trên giá nguyên liệu giấy sẽ ảnh hưởng lớn nhất đến chi phí sản xuất thùng carton. Ở những nước nguồn cung bột giấy không đủ đáp ứng cho sản xuất thì phải nhập khẩu dẫn đến giá thành cao. Sản xuất bột giấy đáp ứng được 35% nhu cầu trong nước chủ yếu là bột tẩy trắng từ gỗ cứng và lượng bột giấy này chủ yếu sử dụng nội bộ cho sản xuất giấy của doanh nghiệp, nhập khẩu bột giấy chiếm tỷ trọng 65%. Năng lực sản xuất bột giấy trong nước không tăng, sản xuất tăng trưởng 5,4%/ năm, tiêu dùng tăng trưởng 4,6%/năm, nhập khẩu tăng trưởng 4,2%/năm. Nguồn cung bột giấy nhập khẩu cho thị trường Việt Nam chủ yếu đến từ Bắc Mỹ và Mỹ Latin.
Giấy tái chể (giấy thu hồi) là nguyên liệu đóng vai trò rất quan trọng trong ngành công nghiệp giấy của các nước phát triển nhờ tỷ lệ thu gom nội địa cao. Tỷ lệ thu gom tại Bắc Mỹ đạt tỷ lệ 70%, khối EU đạt tỷ lệ 73%, Nhật Bản đạt tỷ lệ 81,3%; trong khi đó khu vực châu Á tỷ lệ thu gom chỉ đạt 52,5%, dưới cả mức trung bình của thế giới 59%. Xuất khẩu giấy tái chế (giấy thu hồi) chủ yếu đến từ Bắc Mỹ, EU, Nhật Bản.
Giấy thu hồi có vai trò rất quan trọng là nguyên vật liệu không thể thay thế trong sản xuất giấy của Việt Nam. Tỷ lệ sử dụng giấy thu hồi làm nguyên liệu sản xuất giấy các loại đạt tỷ lệ 87%, sử dụng trong sản xuất giấy bao bì đạt tỷ lệ 98%. Hoạt động thu gom giấy thu hồi đã phát triển mạnh và đạt được tỷ lệ 43%. Tuy nhiên tăng trưởng mạnh về sản xuất trong 2 năm gần đây, đặc biệt là giấy bao bì dẫn đến tỷ lệ thu gom trong nước không theo kịp. Kết hợp với đó là hoạt động thu gom mang tính tự phát, manh mún, lạc hậu nên chưa mang lại hiệu quả cao.
Tình hình nguồn nguyên vật liệu phục vụ ngành bao bì giấy tại Việt Nam
Vài năm gần đây, dăm gỗ là mặt hàng xuất khẩu có mức tăng trưởng tốt. Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, năm 2022 sản lượng xuất khẩu mặt hàng này đạt 15,8 triệu tấn, tăng 16,2% so với năm 2021. Giá trị xuất khẩu đạt gần 2,8 tỷ USD, tăng hơn 60% so với cùng kỳ.
Việc mở rộng xuất khẩu dăm gỗ trong thời gian qua chủ yếu do mức giá xuất khẩu tăng mạnh. Giá FOB (giá đã bao gồm chi phí vận chuyển lô hàng ra cảng, thuế xuất khẩu và thuế làm thủ tục xuất khẩu) xuất khẩu dao động 130-200 USD/tấn trong năm 2022. Hiện Việt Nam cũng là nước cung cấp dăm gỗ lớn thứ nhất thế giới.
Dăm gỗ là một trong những nguyên vật liệu để sản xuất bột giấy. Có một nghịch lý là mặc dù Việt Nam là nước xuất khẩu dăm gỗ lớn nhưng lại phải nhập khẩu phần lớn bột giấy từ các nước.
Nguyên nhân thực trạng này được ông Đặng Văn Sơn, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam chia sẻ tại tọa đàm về cơ hội và thách thức đối với ngành sơn, giấy, cao su, nhựa diễn ra ngày 6/4.
Ông Sơn cho biết cứ 2 tấn dăm gỗ sẽ sản xuất được 1 tấn bột giấy. Với mức xuất khẩu hơn 15 triệu tấn dăm như hiện nay, sản xuất được 7 triệu tấn bột giấy.
Hiện nay, giá bột giấy khoảng 700 USD/tấn. Như vậy việc sản xuất bột giấy đem lại hiệu quả kinh tế và lợi nhuận rất lớn.
Tại Việt Nam hiện có 2 đơn vị sản xuất mặt hàng này gồm Tổng Công ty Giấy Việt Nam và Công ty cổ phần Giấy An Hòa. Hai doanh nghiệp này sản xuất từ 70.000-130.000 tấn bột giấy mỗi năm tuy nhiên chủ yếu để đáp ứng nhu cầu sản xuất là chính.
Theo tính toán của chuyên gia, mỗi năm, Việt Nam tối thiểu phải dùng từ 500.000-600.000 tấn bột giấy, chủ yếu đến từ nhập khẩu. Câu hỏi đặt ra là tại sao chúng ta không tận dụng nguyên liệu thô sẵn có trong nước, nhiều tiềm năng mà phải nhập khẩu từ các nước khác?
Phó chủ tịch Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam chỉ ra 3 nguyên nhân chính.
Khó khăn lớn nhất là việc tiếp cận nguồn nguyên vật liệu. Mặc dù Việt Nam xuất khẩu hơn 15 triệu tấn dăm gỗ mỗi năm nhưng nguồn cung hiện nay phân bố rải rác, mang tính tự phát, không có vùng nguyên liệu đủ lớn để xây dựng một nhà máy sản xuất bột giấy. Nhà máy này cần có vùng nguyên liệu đủ lớn, ổn định và chắc chắn. Để có được vùng nguyên liệu lớn và ổn định, doanh nghiệp cần được sở hữu rừng cho việc sản xuất giấy. Nguồn cung hệ thống nhỏ lẻ hiện nay cũng khó khăn trong việc tiếp cận..
Thứ hai là vấn đề vốn. Việc xây dựng một nhà máy sản xuất bột giấy đòi hỏi số vốn lớn, thời gian thu hồi vốn lâu. Ông Sơn cho biết một nhà máy sản xuất bột giấy hiệu quả cần đầu tư tối thiểu khoảng 300-500 triệu USD. “Ai dám bỏ ra 300-500 triệu USD đầu tư nhà máy khi phải ăn đong từng đồng nguyên liệu sản xuất?”, vị này trăn trở.
Vấn đề thứ ba liên quan đến cơ chế chính sách. Thổ nhưỡng Việt Nam rất phù hợp để trồng các loại cây nguyên liệu như bạch đàn, keo. Phát triển được vùng trồng nguyên liệu thì sẽ tạo công ăn việc làm, nguồn thu nhập lớn cho người dân.
Tuy nhiên, hiện chưa có cơ chế chính sách để phát triển những vùng nguyên liệu lớn. Hiện nay các lâm trường quốc doanh thực hiện giao đất cho từng hộ dân. Tuy nhiên, để thỏa thuận được nguồn nguyên liệu với cá nhân hiện rất khó, dù đã có doanh nghiệp thử triển khai.
Kết luận
Từ những số liệu và phân tích trong bài viết trên cho ta thấy những tiềm năng và khó khăn của ngành nguyên liệu giấy Việt Nam tác động trực tiếp tới các doanh nghiệp sản xuất bao bì trong nước và giá thùng carton cung cấp cho thị trường. Để khắc phục những khó khăn này, mỗi doanh nghiệp cần nỗ lực tối ưu hoá trong vận hành, quản lý sản xuất. Đồng thời tìm kiếm những nguồn cung nguyên vật liệu ổn định, chất lượng đáp ứng được nhu cầu của khách hàng.